Theo mình, lần hạ lãi suất này của NHNN mang tính chất “thị trường” và “tự nhiên” khi hội tụ đủ hai yếu tố cơ bản: lạm phát đã dần hạ nhiệt và thanh khoản hệ thống Ngân hàng tương đối dồi dào. Tuy nhiên, mức độ tác động sẽ không lớn.
𝐌𝐨̣̂𝐭 𝐪𝐮𝐲𝐞̂́𝐭 đ𝐢̣𝐧𝐡 𝐦𝐚𝐧𝐠 𝐭𝐢́𝐧𝐡 𝐜𝐡𝐚̂́𝐭 “𝐭𝐡𝐢̣ 𝐭𝐫𝐮̛𝐨̛̀𝐧𝐠”
Như chúng ta biết, hai điều kiện quan trọng nhất để lãi suất thị trường giảm là lạm phát kỳ vọng giảm và thanh khoản hệ thống dồi dào. Hiện tại cả 2 yếu tố này đều đang ủng hộ cho xu hướng giảm lãi suất.
Theo dữ liệu từ tổng cục thống kê, CPI tháng 4 giảm 1,54% so với tháng trước, đây là mức giảm lớn nhất trong giai đoạn 2016-2020. Đà giảm mạnh của giá hàng hóa dịch vụ do giãn cách xã hội và giá dầu giảm mạnh cũng đã kéo tăng trưởng CPI so với cùng kỳ (CPI yoy) về mức ~3%. Đây là mặt bằng thấp của CPI yoy trong 3 năm gần đây.
Với những yếu tố: 1) ảnh hưởng của Virus sẽ làm nhu cầu chi tiêu, đi lại giảm trong năm nay; 2) giá xăng dầu nhiều khả năng vẫn sẽ duy trì ở mức thấp; 3) tốc độ tăng tiền lương chậm do tỷ lệ thất nghiệp gia tăng sẽ giúp CPI tiếp tục ổn định ở mức thấp trong các tháng tới. Nhiều ý kiến từ các chuyên gia cho rằng CPI cả năm sẽ chỉ duy trì ở mức 3-3,5%.
Về phía thanh khoản hệ thống ngân hàng, không khó để thấy lượng tiền đang rất dồi dào. Lãi suất liên ngân hàng một thời gian dài duy trì giao dịch ở mặt bằng thấp, thậm chí trong những tuần gần đây, lãi suất này đang tiến về sát mốc thấp kỷ lục đã từng được thiết lập vào đầu năm 2020.
Dự kiến trong những tháng tới, thanh khoản hệ thống sẽ tiếp tục dư thừa. Lý do bởi hơn 86,000 tỷ tín phiếu sẽ tiếp tục đáo hạn trong nửa cuối tháng 5 và tháng 6. Với chiến lược hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống, NHNN nhiều khả năng sẽ không phát hành trung hòa lượng tiền này, hay nói cách khác, thị trường tiếp tục sẽ đón ngần ấy tiền.
Trong khi lượng tiền dồi dào thì tín dụng đầu ra lại rất ì ạch. Theo công bố từ NHNN, tính đến ngày 28/4/2020, tín dụng tăng 1,32% so với cuối năm 2019. Như vậy, sau khi suy giảm từ mức 1,3% cuối tháng 3 xuống 0,87% vào nửa đầu tháng 4, tín dụng nửa cuối tháng 4 đã có có phần tăng tích cực trở lại. Tuy nhiên con số này thấp hơn nhiều so với mức tăng 4,6% của cùng kỳ năm 2019.
Mức tăng trưởng thấp của tín dụng cho thấy dòng tiền cho vay đang bị “tắc”, một phần vì doanh nghiệp gặp khó về đầu ra nên nhu cầu vốn chưa phục hồi, một phần vì các ngân hàng cũng phải thận trọng hơn trong giải ngân, nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong tương lai.
Việc hạ lãi suất điều hành và trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn chắc chắn sẽ giúp các ngân hàng giảm chi phí huy động và từ đó giảm lãi suất cho vay, tái cơ cấu nợ. Kết quả cuối cùng là giúp các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn rẻ hơn, duy trì sự sống trong giai đoạn khó khăn và tận dụng cơ hội khi nền kinh tế phục hồi.
𝐓𝐮𝐲 𝐧𝐡𝐢𝐞̂𝐧, 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐧𝐠𝐚̆́𝐧 𝐡𝐚̣𝐧 𝐪𝐮𝐲𝐞̂́𝐭 đ𝐢̣𝐧𝐡 𝐧𝐚̀𝐲 𝐬𝐞̃ 𝐜𝐡𝐮̛𝐚 𝐭𝐚́𝐜 đ𝐨̣̂𝐧𝐠 𝐧𝐡𝐢𝐞̂̀𝐮 đ𝐞̂́𝐧 𝐝𝐨𝐚𝐧𝐡 𝐧𝐠𝐡𝐢𝐞̣̂𝐩.
Khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại là thiếu tiền và thị trường đầu ra phục hồi chậm. Lãi suất thấp không phải là điều đối tượng này thực sự “khát” vào thời điểm hiện tại.
Lý do là bởi, việc giảm lãi suất về cơ chế sẽ giúp chi phí đầu vào của ngân hàng giảm và từ đó có dư địa giảm lãi suất cho vay. Tuy nhiên, đối với nhóm doanh nghiệp có tình hình kinh doanh khó khăn, đối tượng thực sự cần vốn thì các ngân hàng sẽ e ngại nợ xấu mà hạn chế giải ngân, tiền không chảy được đến nơi thực sự cần “cấp cứu”. Còn đối với các doanh nghiệp kinh doanh ổn định hơn thì giảm lãi suất trong ngắn hạn cũng chưa thể kích hoạt được nhu cầu cho đầu ra của sản phẩm.
Như vậy vấn đề vẫn bị tắc nghẽn ở đây, đó cũng chính là lý do tín dụng lãi suất thấp chưa thể khơi thông mạnh trong ngắn hạn. Tuy nhiên, dẫn vốn qua hệ thống ngân hàng hiện tại đang là kênh dẫn vốn duy nhất của chính sách tiền tệ tại Việt Nam, chính vì thế ngoài sự lựa chọn này NHNN gần như không còn sự lựa chọn nào khác, việc sử dụng những công cụ mạnh tay như các ngân hàng trung ương thế giới đang áp dụng lúc này là chưa cần thiết và sẽ để hậu quả nặng nề sau này.
𝐇𝐨𝐚̣𝐭 đ𝐨̣̂𝐧𝐠 𝐤𝐢𝐧𝐡 𝐝𝐨𝐚𝐧𝐡 𝐜𝐮̉𝐚 𝐧𝐠𝐚̂𝐧 𝐡𝐚̀𝐧𝐠 𝐬𝐞̃ 𝐛𝐢̣ 𝐚̉𝐧𝐡 𝐡𝐮̛𝐨̛̉𝐧𝐠 𝐧𝐡𝐞̣.
Ngoài nguồn vốn tự có và huy động từ giấy tờ có giá chiếm một phần nhỏ thì phần lớn các ngân hàng hiện nay vẫn tập trung huy động trên thị trường một (từ dân chúng, các tổ chức kinh tế) và thị trường hai (thị trường liên ngân hàng).
Đối với thị trường một, nếu lãi suất thực vẫn duy trì dương và hoạt động hệ thống ổn định thì quyết định giảm lãi suất sẽ không tác động quá lớn đến vấn đề huy động của các ngân hàng. NHNN có thể áp dụng những biện pháp hành chính nhất định đối với thị trường này mà vẫn không làm thay đổi quá lớn môi trường hoạt động của các ngân hàng.
Tuy nhiên, đối với thị trường hai, chi phí của việc huy động vốn được thể hiện qua lãi suất liên ngân hàng và lãi suất này thì mang tính chất thị trường, ngân hàng nhà nước chỉ có thể điều tiết để lãi suất liên ngân hàng nằm trong vùng mục tiêu mà mình mong muốn. Diễn biến điều hành thị trường hai được thể hiện như trong Hình – Lãi suất liên ngân hàng và diễn biến thị trường mở – Nguồn: Bloomberg, SBV, SSI tổng hợp.
Nhìn vào hình 1 chúng ta có thể thấy từ năm 2020 thanh khoản dư thừa và kênh tín phiếu ít được sử dụng đã đẩy lãi suất liên ngân hàng mặt bằng chung duy trì dưới lãi suất tín phiếu, cách xa lãi suất OMO và lãi suất chiết khấu (một loại lãi suất trần vô hình mà chúng ta đã đề cập ở trên). Hay nói cách khác nhu cầu vốn trên thị trường liên ngân hàng hầu hết đều được các ngân hàng tự đáp ứng lẫn nhau và chưa phải sử dụng đến kênh OMO hay cửa sổ chiết khấu. Như vậy việc hạ lãi suất OMO, tái cấp vốn, tái chiết khấu sẽ chưa tác động nhiều đến việc giảm chi phí huy động vốn trên thị trường hai.
Về phía đầu ra của ngân hàng, hiện tại vẫn còn nhiều động lực và thời gian để tăng trưởng tín dụng trong năm nay đạt con số từ 10-13%, suy giảm không mạnh so với các năm trước. Tuy nhiên nhiều khả năng NHNN sẽ tiếp tục đề ra các chính sách nhằm giảm lãi suất cho vay sâu hơn nữa trong thời gian tới. Ngoài ra, các gói hỗ trợ tín dụng có thể còn mở rộng ra những doanh nghiệp chịu ảnh hưởng gián tiếp, hoặc toàn nền kinh tế nếu tổng cầu phục hồi yếu.
Như vậy chi phí đầu vào của ngân hàng trong năm 2020 được dự báo sẽ giảm dưới quy luật thị trường và cả sự hỗ trợ từ phía ngân hàng nhà nước, tuy nhiên đầu ra thì áp lực giảm sẽ mạnh hơn dẫn đến NIM các ngân hàng trong năm 2020 nhiều khả năng sẽ chỉ đi ngang hoặc giảm nhẹ ở hầu hết các ngân hàng.